Hội nghị thượng đỉnh Nhật-Đức được tổ chức tại Tokyo vào ngày 28 tháng 4. Thủ tướng Đức Scholz nói rằng việc chọn Nhật Bản cho chuyến công du châu Á đầu tiên sau khi nhậm chức là một tín hiệu chính trị. Các chuyên gia cho rằng trước cảnh báo về cuộc chiến Nga-Ukraine, Đức sẽ tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn với Nhật Bản về an ninh kinh tế và các khía cạnh khác, mặc dù vẫn sẽ có một khoảng cách đáng kể về lực lượng đầu tư chống lại Trung Quốc.
Tách khỏi đường lối ủng hộ Trung Quốc của bà Merkel
Thủ tướng Đức Scholz đã đến Tokyo vào ngày 28/4, bắt đầu chuyến thăm đầu tiên đến một quốc gia châu Á kể từ khi ông trở thành thủ tướng. Cùng ngày, ông Scholz đã hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida. Ông cho biết tại cuộc họp báo chung sau cuộc họp: “Chuyến thăm của tôi là một tín hiệu chính trị rõ ràng rằng Đức và EU sẽ tiếp tục và tăng cường gắn kết với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”.
Có một lý do chính thức khác cho chuyến thăm của ông Scholz đến Nhật Bản. Năm nay, Đức là quốc gia chủ trì hội nghị thượng đỉnh G7 thường niên, và theo thông lệ, quốc gia chủ trì sẽ đến thăm các nước tham dự. Hội nghị thượng đỉnh G7 năm 2022 dự kiến diễn ra vào cuối tháng 6 tại Schloss Elmau ở Bavaria, Đức.
Bà Angela Merkel, cựu Thủ tướng Đức đã đến thăm Trung Quốc 12 lần trong nhiệm kỳ 16 năm của bà, và chỉ 5 lần đến Nhật Bản.
Trong một cuộc phỏng vấn với VOA, ông Bành Đào (Peng Tao), cựu giáo sư tại Trường Quản trị North Rhine-Westphalia của Đức, nói rằng dưới thời bà Merkel, Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, thường chỉ là một phần trong chính sách châu Á. Trong một thời gian dài, Berlin chủ yếu tập trung vào Trung Quốc. Ngược lại, ông Scholz hiện không có kế hoạch thăm Trung Quốc, dường như có ý định sử dụng điều này để làm nổi bật tầm quan trọng ngày càng tăng của Nhật Bản đối với Đức.
Ông Bàng nói: “Theo giới liên minh cầm quyền của Đức, thủ tướng đã gửi tín hiệu tới Bắc Kinh rằng ông đang chuyển trọng tâm chính sách châu Á của Đức. Đối với các nhà ngoại giao Đức, điều này cho thấy vai trò ngày càng tăng của Nhật Bản trong chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Berlin. Xung đột giữa các cường quốc ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và cuộc chiến ở Ukraine đã làm tăng giá trị của Nhật Bản đối với Đức, đó là lý do chính dẫn đến sự thay đổi trong chính sách Châu Á của Đức”.
Ông Lâm Tử Lập (Lin Zili), chuyên gia về quan hệ EU-Trung Quốc và là giáo sư Khoa Chính trị tại Đại học Đông Hải (Tunghai University), Đài Loan, cũng đồng ý với quan điểm này. Ông nói với VOA rằng chiến tranh Nga-Ukraine xảy ra đã khiến chiến lược ngoại giao trong quá khứ của Đức bị xem xét và chỉ trích. Trong quá khứ, chiến lược ngoại giao của Đức về cơ bản dựa vào Nga về năng lượng và dựa Trung Quốc về thương mại thị trường. Tuy nhiên, cả hai đều là những quốc gia hiếu chiến và Đức đang bắt đầu cân nhắc lại chiến lược ngoại giao với hai quốc gia này.
Ông Lâm nói: “Ông Scholz đã tạo ra một thay đổi rất quan trọng. Ông ấy hiển nhiên cho rằng vì các nước châu Âu và Mỹ đều tin rằng thế kỷ 21 đã bước vào giai đoạn giữa, nên trung tâm thương mại trong tương lai sẽ ở châu Á. Và mọi người cũng tin rằng châu Á không thể bị Trung Quốc chi phối, nên ngoài Trung Quốc, cường quốc kinh tế thương mại có ảnh hưởng lớn nhất ở châu Á chính là Nhật Bản. Vì vậy, lựa chọn đầu tiên cho chính sách châu Á mới của Đức là Nhật Bản, điều này không có gì ngạc nhiên. Đặc biệt, Đức sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh G7 trong năm nay, trong đó có cách thức hợp tác với Nhật Bản trong vấn đề Ukraine, vốn là chủ đề của cuộc đàm phán Nhật-Đức”.
Ông Vương Tôn Ngạn (Wang Zunyan), một học giả tại Viện Nghiên cứu Quốc phòng và An ninh ở Đài Loan, cho rằng vì Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Đức, nên sự phụ thuộc thương mại của Đức vào Trung Quốc vẫn tồn tại trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nó bị ảnh hưởng bởi sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, sự tách rời giữa Hoa Kỳ và nền kinh tế Trung Quốc, thậm chí cả hình ảnh quốc tế của Trung Quốc, Đức sẽ ngày càng thận trọng hơn trong thương mại với Trung Quốc, và sẽ cố gắng giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế và thương mại vào nước này càng nhiều càng tốt.
Ông nói với VOA: “Cuộc hội đàm Nhật-Đức đề cập đến vấn đề an ninh kinh tế, điều này phản ánh rằng Đức rất nhạy cảm với tình trạng mất an ninh kinh tế do sự phụ thuộc kinh tế vào các nước khác, và do đó bày tỏ mong muốn hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực an ninh kinh tế trong tương lai tại hội nghị thượng đỉnh. Tất nhiên, chúng ta cũng có thể phân tích từ quan điểm này rằng trọng tâm chính sách đối ngoại của Đức đã thực sự mở rộng từ Trung Quốc sang các đồng minh của Mỹ như Nhật Bản”.
Chiến lược kinh tế chặt chẽ, sự khác biệt nhỏ trong các lệnh trừng phạt chống lại Nga
Ông Scholz và ông Kishida đã thảo luận về các chủ đề trọng tâm như các biện pháp trừng phạt chống lại Nga, sự phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên của Nga, an ninh chuỗi cung ứng cho chất bán dẫn, nguyên liệu thô và địa chính trị. Ông Scholz, người bày tỏ mong muốn làm sâu sắc hơn quan hệ kinh tế với Nhật Bản, đã đi cùng đoàn doanh nghiệp trong chuyến thăm và sẽ phát biểu tại một hội nghị kinh tế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Đức ở Nhật Bản.
Ông Bàng Đào cho biết Đức và Nhật Bản đều là những nước hướng đến xuất khẩu với nhiều lợi ích chung. Trong bối cảnh xung đột địa chính trị, các lợi ích chung đã đưa các cường quốc tầm trung như Đức và Nhật Bản hướng tới xuất khẩu xích lại gần nhau hơn bao giờ hết về đối thoại, giá trị và chiến lược, đặc biệt là về an ninh kinh tế.
Ông nói: “Theo các nhà ngoại giao, Nhật Bản có thể trở thành đối tác chính sách an ninh mới của Đức do chuỗi cung ứng, giá hàng hóa tăng và sự bành trướng mạnh mẽ hơn của Trung Quốc ở châu Á. Trong một thế giới ngày càng tách biệt, tầm quan trọng về kinh tế của Nhật Bản đối với Đức ngày càng tăng. Chiến lược kinh tế của Nhật Bản đối với Đức cũng ngày càng trở nên quan trọng, khi thế giới có nguy cơ chia cắt thành các mạng lưới cung cấp khác nhau cho các sản phẩm chủ chốt như pin, chip và các linh kiện điện tử khác”.
Về sự phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên của Nga, ông Lâm Tử Lập cho rằng bề ngoài, Nhật Bản dường như đang hợp tác với Hoa Kỳ trong các biện pháp trừng phạt chống lại Nga, còn Đức đã phản ứng chậm hơn vì phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên của Nga, nhưng thực tế không phải vậy.
Ông nói: “Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Thương mại Nhật Bản đã tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ không rút khỏi các dự án phát triển dầu khí “Sakhalin 1” và “Sakhalin 2″ trên đảo Sakhalin ở vùng Viễn Đông của Nga, cũng như khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) trong dự án ‘Arctic LNG 2’ ở Bắc Cực. Vương quốc Anh và Pháp cũng tham gia vào dự án phát triển khí đốt tự nhiên này, nhưng cả Vương quốc Anh và Pháp đều rút lui do lệnh trừng phạt chống lại Nga, nhưng Nhật Bản vẫn tiếp tục tham gia, vì tương lai năng lượng của Nhật Bản phụ thuộc trong một số dự án”.
Đức giữ vững lập trường bằng những hành động cụ thể
Khi được hỏi về các vấn đề liên quan đến Trung Quốc tại một cuộc họp báo chung, ông Kishida cho biết ông và ông Scholz đã thảo luận cởi mở về chủ đề này và nhất trí phản đối mọi nỗ lực nhằm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Ông Bàng Đào cho rằng, trước mối đe dọa từ Trung Quốc, cả Nhật Bản và Đức đều nỗ lực duy trì trật tự tự do hàng hải ở Biển Đông và ngăn chặn Bắc Kinh đơn phương sử dụng vũ lực để thay đổi hiện trạng hòa bình ở eo biển Đài Loan, đặc biệt là sau cuộc chiến tranh giữa Ukraine và Nga.
Ông nói: “Trong bối cảnh cuộc chiến ở Ukraine và căng thẳng leo thang trên eo biển Đài Loan, cả Nhật Bản và Đức đều muốn tăng chi tiêu quân sự nhanh hơn và tìm kiếm sự can dự nhiều hơn trước. Cuộc hội đàm song phương 2 + 2 đầu tiên được tổ chức vào năm ngoái, tức là cuộc gặp giữa bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng quốc phòng hai nước. Ngoài ra, Đức đã điều khinh hạm Bayern đến châu Á để phát tín hiệu tự do hàng hải ở tất cả các vùng biển, bao gồm cả Biển Đông mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trái phép. Đổi lại, Nhật Bản đã lần đầu tiên cử ngoại trưởng của mình tới cuộc họp NATO gần đây nhất vào tháng 4 này”.
Ông Vương Tôn Ngạn, chỉ ra rằng sự tham gia của các tàu chiến Đức trong cuộc tập trận không nhất thiết có nghĩa “Đức sẽ tham chiến nếu có chiến tranh”, nhưng ít nhất đó là một tuyên bố. Nếu Trung Quốc thực sự đe dọa các nước trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bằng lực lượng quân sự của mình, Đức ít nhất sẽ sử dụng ảnh hưởng của mình trong cộng đồng quốc tế để can thiệp ngoại giao, ngay cả khi nước này không gửi quân. Ông lưu ý rằng vào năm 2019, trong nhiệm kỳ của bà Merkel, lần đầu tiên chính quyền Berlin đã đưa ra các hướng dẫn chính sách Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của riêng mình. Kể từ đó, Đức đã cố gắng thể hiện ảnh hưởng nhiều hơn ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Ông Vương nói: “Mặc dù Đức phụ thuộc kinh tế và thương mại vào Trung Quốc, vì Đức đã coi Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là khu vực quan trọng trong quan hệ đối ngoại của mình, nên đương nhiên nước này phải chú ý đến mối đe dọa mà Trung Quốc đã thể hiện trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, và cũng cần phải bày tỏ mối quan tâm của Đức về vấn đề này. Tôi nghĩ rằng việc chính phủ Đức công bố ‘Chính sách Ấn Độ – Thái Bình Dương’ vào năm ngoái tương đương với một tuyên bố chính sách về vấn đề này”.
Các nước châu Âu tăng cường tham gia vào các hoạt động ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
Ông Vương Tôn Ngạn cho biết, Đức là một quốc gia lớn trong Liên minh châu Âu và cũng giống như Pháp, nước này luôn cạnh tranh vị trí lãnh đạo ở châu Âu. Vì vậy, về việc hỗ trợ các nước Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tăng cường đối kháng với Trung Quốc, kể từ khi Pháp có động thái, Đức cũng không muốn vắng mặt. Nhưng sẽ có sự khác biệt đáng kể giữa Nhật Bản và Đức trong thái độ của họ đối với việc đầu tư vào việc duy trì khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Ông nói: “Chúng ta khó có thể mong đợi Đức nhạy cảm như Nhật Bản trước mối đe dọa của Trung Quốc, và thậm chí can thiệp vào một cuộc chiến có thể xảy ra ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vốn không liên quan gì đến chủ quyền của nước này, nhưng nếu Đức sẵn sàng bày tỏ sự ủng hộ đối với vấn đề chống lại Trung Quốc ở giai đoạn này, và một số biện pháp mang tính biểu tượng, chẳng hạn như gửi tàu chiến đến khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để tập trận và các cuộc huấn luyện quân sự khác. Đối với chính phủ Nhật Bản ở giai đoạn này, cần tin rằng quan hệ Nhật-Đức đóng một vai trò trong việc chống lại Trung Quốc”.
Chuyên gia về quan hệ Trung-Âu, ông Lâm Tử Lập cho rằng không chỉ Đức, mà nhiều nước châu Âu có các phiên bản riêng của chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, để thể hiện tiếng nói của châu Âu trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trước sự kiện Trung Quốc thay đổi hiện trạng ở Biển Đông.
Ông nói: “Phương Tây luôn chủ trương vũ lực và nắm đấm, vì vậy họ không ngừng huấn luyện thông qua các cuộc tập trận quân sự và hộ tống các loại tàu thương mại tự do đi qua Biển Đông để duy trì một Biển Đông rộng mở và tự do. Tất nhiên, họ cũng lo ngại hơn về sự ổn định của eo biển Đài Loan, bởi vì sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa trên diện rộng không chỉ Biển Đông, mà còn cả Biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan. Trên thực tế, các nước châu Âu lo ngại hơn rằng nếu chất bán dẫn của Đài Loan rơi vào tay Trung Quốc, ngành công nghiệp bán dẫn, công nghiệp điện tử và thậm chí là công nghiệp ô tô ở toàn bộ khu vực châu Âu và châu Mỹ sẽ bị Trung Quốc hạn chế và chi phối rất nhiều trong tương lai. Điều này là hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với họ”.
Ông Lâm Tử Lập cho rằng dự kiến từ nửa cuối năm nay đến năm sau, các nước trên thế giới sẽ có nhiều hoạt động quân sự, chính trị và kinh tế ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ngày càng mạnh mẽ hơn.